Trong ngành chăn nuôi thủy hải sản, thì cá tra và cá basa là 2 giống cá được nuôi nhiều nhất. Bởi 2 giống cá này vừa thu hút thị trường trong nước, lại vừa rất hút hàng trên thị trường xuất khẩu. Vì thế mà mang đến nguồn thu nhập cao cho các hộ nuôi cá cũng như không sợ thiếu nguồn tiêu thụ. Vì thế bà con nuôi 2 giống cá này nên lưu ý đến cách phòng và trị những căn bệnh thường gặp trên cá tra, cá basa để không bị thiệt hại trong quá trình nuôi cá. Trong bài viết này, tohlim sẽ chia sẻ đến bà con kiến thức phòng trị bệnh thường gặp trên cá tra, cá basa cũng như nhiều loài cá nước ngọt khác, mời bà con tham khảo nhé.
Kiến thức phòng trị bệnh trên cá tra, cá basa là cần thiết
Cá tra, basa cũng như nhiều loài cá nước ngọt khác dễ bị nhiễm nhiều loại bệnh phổ biến. Các tác nhân gây bệnh cho cá gồm 2 nhóm là các bệnh truyền nhiễm (do virus, vi khuẩn và ký sinh trùng). Và tác nhân không truyền nhiễm do môi trường, dinh dưỡng. Hoặc do các vi sinh vật gây ra.
Phòng trị bệnh thường gặp – bệnh trắng da (hay bệnh đốm trắng)
Bệnh dễ xuất hiện khi cá bị xây xát do đánh bắt, sang ao, vận chuyển. Hoặc do nhiệt độ môi trường nước thay đổi đột ngột và quá cao. Cá bị nhiễm bệnh thường bỏ ăn, gốc vây lưng xuất hiện vết đốm trắng. Sau đó lan dần đến cuống đuôi và toàn thân. Cá bị bệnh nặng thường bơi lờ đờ ngang mặt nước, rồi lộn đầu xuống và chết. Bệnh này xảy ra rất nhanh nên phát hiện và phòng bệnh sớm là rất cần thiết.
Để trị bệnh dùng một số kháng sinh và thuốc điều trị (thế hệ mới) trộn vào thức ăn hoặc nghiền mịn. Và pha thành dung dịch ngâm thức ăn viên để cho cá ăn: Sunfadimezin 5g + Oxytetracyclin 2g/100 kg cá kết hợp trộn vào thức ăn Superfact 250g/100kg thức ăn. Từ ngày thứ 3, liều dùng giảm đi một nửa. Cá có thể khỏi bệnh sau 5 ngày dùng thuốc.
Bệnh huyết đường ruột cũng rất thường xuất hiện
Xuất hiện chủ yếu vào các tháng mùa khô. Cá bị bệnh bụng chướng to, hậu môn lồi, sưng đỏ, vây bụng xung huyết. Cá bơi lờ đờ, tách đàn, biếng ăn. Để phòng bệnh có thể dùng cỏ mực thái nhỏ và trộn chung thức ăn cho cá ăn. Liều lượng 1 kg cỏ mực + 70kg thức ăn. Cứ cách 1 tuần cho ăn một lần nhằm phòng bệnh đường ruột rất tốt. Trị bệnh cho cá nên dùng Sunfathiazon 6g+0,5g Thiromin/100kg cá. Hoặc Sunfaguanidin 10g/70kg thức ăn. Cho ăn liên tục 5 ngày liền, từ ngày thứ 3 giảm lượng thuốc đi một nửa.
Kiến thức phòng trị bệnh sán lá 16 móc
Sán thường ký sinh trên mang cá tra, basa cả giai đoạn cá giống và nuôi thịt gây viêm loét thối rữa. Có thể dùng lá cây giác (nông dân ĐBSCL vẫn hay dùng) đập dập. Và bó thành bó nhỏ treo ở đầu bè để phòng ký sinh sán lá. Ngoài ra có thể dùng vôi bột 5 g/m3 để phòng bệnh. Trị bệnh dùng nước muối 3 – 4% hoặc Sunphat đồng 5 – 7g/m3 tắm cho cá 5 – 10 phút. Dùng Formol nồng độ 15 – 20g/m3 (15 – 20ppm) phun trực tiếp xuống ao nuôi cá.
Xuất hiện quanh năm, ở giai đoạn cá thịt như basa nuôi trong bè, tỉ lệ bệnh tới 100%. Giun hút chất dinh dưỡng làm cá chậm lớn và tiêu tốn thức ăn. Phòng trị bệnh đối với cá nuôi bè nên định kỳ 3 tháng một đợt tẩy giun cho cá. Dùng thuốc có gốc Piperazin (thế hệ mới) để tẩy giun cho cá. Mỗi đợt tẩy 3 ngày liên tục.
Hội chứng phi lê thịt vàng
Hội chứng phi lê thịt vàng thường được quan sát thấy ở cá tra nuôi trưởng thành trong gian đoạn lũ lụt. Mặc dù không có mầm bệnh nào được tìm thấy có liên quan đến bệnh lý, nhưng hội chứng này thường được quan sát thấy có liên quan đến các sinh vật ký sinh bên ngoài khác và những con cá này có thể trở nên dễ bị nhiễm vi khuẩn.
Các dấu hiệu lâm sàng chung là thiếu máu, sụt cân, cổ trướng và miếng phi lê chuyển màu hơi vàng. Theo dõi nồng độ ôxy hòa tan nhiều lần trong một ngày và suốt đêm. Là việc làm thường ngày ở tất cả các ao. Sử dụng máy sục khí cơ học có máy phun bơm, bánh guồng lớn. Và hệ thống khuếch tán không khí (phổ biến trong mùa lũ ở các ao nuôi thả nhiều) để làm giảm vấn đề. Đó là tất cả những vấn đề thường gặp trên cá tra, cá basa, bà con hãy tham khảo để có những biện pháp phòng trị bệnh phù hợp nhé.