Trước đây, cá còm có khá nhiều trong tự nhiên, nhưng do bị đánh bắt quá mức nên hiện nay rất khan hiếm và không còn nhiều để đánh bắt tự nhiên nữa. Ngoài giá trị là một loại thực phẩm thì loại cá này còn được nuôi như một loại cá cảnh có giá trị kinh tế cao và rất được các chủ nuôi cá cảnh ưa chuộng. Vì ngày càng hiếm trong tự nhiên nên việc khôi phục và phát triển loài cá này trong quần thể cá là vô cùng quan trọng. Hiện nay, việc sản xuất giống nhân tạo để tiến hành nuôi loài cá này ngày càng trở nên phổ biến và được ưa chuộng hơn. Trong bài viết dưới đây, tohlim.com sẽ cung cấp cho các bạn đọc gia thông tin về kỹ thuật nuôi cá còm, cùng tìm hiểu nhé!
Giới thiệu sơ lược về cá còm
Cá còm có thân dẹp bên, lưng nhô cao nên có tên gọi là “Còm” (tức là “gù”). Loài cá này có đầu nhỏ, nhọn; miệng trước, rạch miệng xiên kéo dài qua khỏi mắt, lỗ miệng rộng, xương hàm trên phát triển. Có một đôi râu mũi ngắn, mắt nằm lệch về phía lưng của đầu. Lưng của thân và đầu màu xanh rêu, hai bên hông và bụng màu trắng. Cá còn nhỏ dưới 10cm có 10 – 15 hàng băng đen chạy ngang thân, các băng này mờ dần khi cá lớn và trở thành các chấm lớn đen to, tròn ở phần đuôi, mỗi chấm đen đều có vành trắng bên ngoài (có 5 – 10 chấm).
Trong tự nhiên cá sống ở tầng giữa và tầng đáy, thích ở những nơi nhiều cây cỏ. Ban ngày chúng thường ẩn mình trong các đám thực vật thủy sinh. Ban đêm thì chúng hoạt động nhiều hơn. Nhiệt độ thích hợp cho cá từ 26 – 28 độ C. Nhiệt độ giới hạn của cá còm là 14 độ C (thấp nhất) và 36 độ C (cao nhất). Một số thực nghiệm trên cá còm cho thấy cá có mức tiêu hao oxy trung bình thấp so với nhiều loài cá khác: tiêu hao oxy trung bình của cá là 0,59mg oxy/gam/giờ ở nhiệt độ 28 – 29 độ C.
Kỹ thuật nuôi cá còm trong ao
Cách chuẩn bị ao để nuôi cá
Diện tích ao nuôi từ 200m2 trở lên, độ sâu mức nước từ. Vị trí ao nên gần nguồn nước để việc cấp thoát nước dễ dàng. Còn về khâu cải tạo ao thì sẽ được tiến hành theo các bước sau:
- Tát cạn ao, nạo vét bùn đáy, chỉ để lại lớp bùn dày không quá 30cm.
- Dùng dây thuốc cá diệt cá tạp, cá dữ, lượng dùng 0,5 – 1kg rễ dây thuốc cá cho 100m3 nước.
- Dùng vôi bột với liều lượng 8 – 10kg/100m2 rải đều xuống đáy ao, mái bờ để diệt các loài cá tạp còn sót và diệt mầm bệnh. Vùng nhiễm phèn thì bón lượng vôi cao hơn khoảng 50%. Sau khi rải vôi xong phải bừa đáy ao để trộn đều vôi với lớp bùn mặt ao.
- Bón phân chuồng mục để tạo thức ăn tự nhiên ban đầu cho cá. Hãy bón với liều lượng 10 – 20kg/100m2 ao nuôi. Hoặc bón phân ure 0,5kg/100m2, lân 0,3kg/100m2 hoặc phân hỗn hợp N-P-K 2kg/100m2.
- Phơi đáy ao 2 – 3 ngày. Đối với ao ở vùng nhiễm phèn thì không nên phơi đáy.
- Cấp nước vào ao đến mực nước 0,5 – 0,6m thì thả cá giống. Sau đó tiếp tục cấp nước vào ao đến 1 – 1,2m. Việc cấp nước phải được lọc qua túi lọc để loại bỏ rác bẩn và cá tạp hay địch hại.
Cách thả cá giống
- Chọn cá giống khỏe mạnh, bơi lội nhanh nhẹn, không xây xát. Trước khi thả xuống ao, tắm nước muối 2 – 3% cho cá trong 10 – 15 phút.
- Mật độ thả: trung bình 5 – 10 con/m2, cỡ cá thả từ 6 – 8cm. Phải thả cá giống lúc trời mát.
- Có thể thả ghép trong ao nuôi cá còm một vài loài khác như cá mè trắng, tai tượng, cá mùi hoặc sặc rằn với tỷ lệ không quá 50% tổng số cá nuôi trong ao và cũng không thả những loài cá tranh giành thức ăn với cá còm như rô phi, cá tra.
Cách cho cá ăn
Mỗi ngày cho cá ăn 2 – 3 lần theo các công thức sau:
- Hai tuần đầu: 100 gam thức ăn cho 1.000 cá; trong đó 50 gam cám và 50 gam bột cá nấu chín được trộn đều.
- Từ 3 tuần trở đi cho 50% thức ăn chế biến (cám + bột cá) và 50% thức ăn tươi sống (cá tạp, tôm, tép,…).
Chú ý, thức ăn phải tươi, không bị ươn thối, băm nhỏ và rửa sạch trước khi cho ăn. Nguyên liệu của thức ăn chế biến không bị mốc, còn thời hạn sử dụng. Ngoài ra, người nuôi tập cho cá ăn thức ăn công nghiệp loại nhỏ, vừa kích cỡ miệng cá, hàm lượng đạm 25 – 30%, khi cho ăn tỷ lệ phối hợp thức ăn viên công nghiệp khoảng 30%. Kiểm tra thức ăn sau khi cá ăn để kịp thời điều chỉnh. Phải rửa sạch sàng trước khi cho cá ăn.
Cách quản lý ao khi nuôi
Hàng ngày chú ý kiểm tra bờ ao, kịp thời phát hiện và tu sửa bờ, lưới chắn, lấp hang hốc, đề phòng nước mưa tràn bờ. Hàng tuần thay nước cho ao, mỗi lần thay 30 – 50% lượng nước. Khi nước ao có màu xanh quá đậm, nâu đen hoặc có mùi hôi, phải tiến hành thay nước ao.
Cách phòng trị bệnh khi nuôi cá còm
Cá còm thường bị nhiễm bệnh trong trường hợp nuôi mật độ quá dày, nước ao bị ô nhiễm hoặc do các tác nhân cơ học và cá bị xây xát. Trong nuôi cá còm thường gặp bệnh nhiễm khuẩn hoặc nhiễm ký sinh trùng một số bệnh: bệnh nhiễm trùng huyết do các loài vi khuẩn Pseudomonas, Aeromonas, Edwardlsiella. Các bệnh ký sinh trùng: bệnh trùng bánh xe (Tricho dina), trùng quả dưa (Ichthiophthyrius), các loài giáp xác ký sinh như trùng mỏ neo (Lernea) và rận cá (Argulus), sán lá đơn chủ 16 móc (Dactylogyrus), sán lá 18 móc (Gyrodactylus) hoặc nhiễm giun tròn (Philometra).
Để phòng bệnh cho cá, phải cho cá ăn đầy đủ, thức ăn đảm bảo vệ sinh. Ngoài ra, cần phải giữ môi trường nước ao nuôi sạch, đủ oxy. Khi cá bị bệnh, phải thay nước cho ao, đồng thời tắm cho cá bằng thuốc tím (KMnO4) nồng độ 3 – 5‰ trong 20 – 25 phút.
Cách thu hoạch
Cá có tốc độ lớn khá nhanh, sau thời gian nuôi từ 10 – 12 tháng có thể đạt cỡ 700 – 800 gam. Có thể thu hoạch đồng loạt khi được giá hoặc tỉa cá lớn và thả nuôi lại những cá nhỏ chưa đạt kích cỡ.